Lo âu bình thường là những gì mà chúng ta cảm thấy khi gặp phải một tình huống gây stress từ bên ngoài chẳng hạn như mất việc làm, gặp rắc rối trong các mối quan hệ, hoặc bị ốm. Stress như thế này tồn tại với chúng ta cho đến khi vấn đề được giải quyết. Lo âu bình thường trở thành bệnh lý khi tình huống trở nên quá căng thẳng đến nỗi chúng ta không thể đảm đương được những công việc hàng ngày của mình nữa.
Biểu hiện của rối loạn lo âu đó là căng thẳng, dễ nổi cáu, chóng mặt, cơn nóng bừng, cơn run, cơn hồi hộp trống ngực (tim đập thành hồi nhanh và mạnh), đầy bụng khó tiêu, xỉu, thở nhanh, ngủ kém. Tình trạng này có thể dễ dàng bị hiểu sai thành bệnh nặng, như bệnh tim hoặc ung thư, do vậy càng làm tăng thêm lo âu. Những cơn lo âu bất ngờ ngoài mong đợi còn được gọi là cơn hoảng sợ (phobia) và những cơn này rất khó chịu. Lo âu và hoảng sợ sau một thời gian có thể dẫn đến trầm cảm. Trầm cảm là trạng thái cảm xúc bị hạ thấp, ảnh hưởng đến khả năng tập trung chú ý, làm giảm mọi hứng thú và mất đi những mối quan tâm trước đây, làm cho ta mệt mỏi và chán chường.
Bạn có bị rối loạn lo âu hay không?
Nếu bạn có ít nhất 4 câu trả lời “có” cho các câu hỏi dưới đây thì bạn đã bị rối loạn lo âu:
• Bạn có thường xuyên thấy căng thẳng, lo lắng hoặc dễ cáu kỉnh, bực mình?
• Sự lo lắng của bạn có ảnh hưởng đến công việc, học tập hoặc nhiệm vụ của bạn trong gia đình không?
• Bạn cảm thấy sợ hãi mà bạn biết là mình sợ rất vô lý nhưng không thể kiểm soát được điều đó?
• Bạn có tin rằng có một điều gì xấu sẽ xảy ra nếu có một số việc không được làm theo cách mà bạn nghĩ?
• Bạn có né tránh những tình huống hoặc những hoạt động nhất định nào đó bởi vì nó gây cho bạn lo lắng?
• Bạn có bị những cơn nhịp tim đập nhanh mà bạn thường cho là mình bị bệnh lý về tim mạch và đi khám thì không có bệnh lý gì về tim mạch không?
• Bạn có cảm giác như là có điều gì nguy hiểm và thảm họa gì đó sắp xảy ra đối với bạn không?
Các dạng rối loạn lo âu
Rối loạn lo âu lan tỏa
Thường bắt đầu từ 20-30 tuổi gặp ở nữ 2 lần nhiều hơn nam, đặc điểm của rối loạn này là sự lo âu lan tỏa, dai dẳng và không giới hạn hay nổi bật trong bất cứ tình huống, đối tượng đặc biệt nào. Bệnh có các biểu hiện về tâm trạng như luôn bất an, hồi hộp, còn thể chất thì hay run rẩy, căng cứng bắp thịt, vã mồ hôi, thắt ngực, nóng lưng, đau bụng, khó ngủ. Do các biểu hiện này bệnh nhân thường tìm đến các bác sĩ đa khoa để tìm các tổn thương thể chất cho đến khi không tìm được nguyên nhân thì mới tìm đến các bác sĩ tâm lý. Một trong các tiêu chuẩn chẩn đoán quan trọng là lo âu quá mức hàng ngày trong thời gian ít nhất 6 tháng.
Với những người bị rối loạn lo âu lan tỏa, mỗi ngày diễn ra họ đều phải trải qua cảm xúc lo lắng và căng thẳng quá mức, mặc dù có rất ít hoặc không có vấn đề nghiêm trọng nào. Họ hay dự đoán các sự kiện bất trắc và quá quan tâm đến các vấn đề sức khỏe, tiền bạc, gia đình, hoặc khó khăn trong công việc...
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD)
Trước đây do có ít bệnh nhân đến khám và chịu thừa nhận nên rối loạn này được cho là không phổ biến nhưng những con số thống kê gần đây cho thấy quan niệm này cần phải đính chính lại, theo ước tính ở Mỹ có khoảng 2% người mắc, nam nữ có tỉ lệ như nhau. Đặc điểm của bệnh là các ý nghĩ ám ảnh và hành vi cưỡng chế, người bệnh không làm chủ được các ý nghĩ lặp đi lặp lại một cách vô lý và để giảm bớt độ thôi thúc gây khó chịu cho bản thân họ buộc phải thực hiện hành vi cưỡng chế. Một số hành vi cưỡng chế cụ thể như là nhìn đồng hồ hoặc rửa tay liên tục, sưu tầm các vật vô giá trị, ngăn nắp quá mức, tìm kiếm sự cân đối... Nhiều người ý thức được tính chất bất thường của hành vi nhưng không khống chế được chúng, họ miêu tả điều đó giống như khi bị nấc dù rất muốn nhưng không thể nào dừng lại được.
Người mắc rối loạn ám ảnh cưỡng chế phần nào hiểu rõ tính chất vô ích của ám ảnh. Đôi khi chính họ cũng công nhận ý nghĩ ám ảnh và hành vi cưỡng chế của họ là phi lý. Nhưng phần lớn họ không có nhận định chắc chắn về sự sợ hãi của mình hoặc thậm chí có niềm tin mạnh mẽ rằng những hành vi đó là phù hợp. Những người mắc rối loạn ám ảnh cưỡng chế phải đấu tranh rất quyết liệt để xua những ý nghĩ không mong muốn và hành vi cưỡng chế. Rất nhiều người có thể ngăn các triệu chứng ám ảnh cưỡng chế xuất hiện trong nhiều giờ khi họ ở trong lớp học hay ở nơi làm việc. Nhưng qua thời gian đó sự kháng cự yếu đi và họ bị chi phối bởi hành vi ám ảnh mang tính chất lễ nghi rất mạnh, nó ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc sống của bệnh nhân và đôi khi khiến họ khó có thể ở một nơi nào đó ngoài căn nhà của mình.
Rối loạn stress sau sang chấn (PTSD)
Sau một trải nghiệm đau buồn như người thân mất, bị ngược đãi, chiến tranh, thiên tai… phần lớn chúng ta lấy lại được cảm xúc quân bình theo thời gian, tuy nhiên ở một số người nó lại trở thành nỗi bất an dai dẳng, cảm giác đau buồn không nguôi này gọi là rối loạn stress sau sang chấn. Tên gọi PTSD chính thức ra đời sau khi người ta nhận thấy rằng rất nhiều cựu binh Mỹ tham chiến ở Việt Nam sau khi trở về nước mặc dù có cuộc sống như mọi người nhưng lại có nhiều biểu hiện tâm lý bất thường. Các triệu chứng thường thấy là người bệnh hay nhớ lại hoàn cảnh sang chấn ngoài ý muốn hoặc nó có thể đến trong cơn ác mộng. Những người có tuổi thơ bất hạnh, bị lạm dụng tình dục, chứng kiến cái chết thảm khốc của người mà mình thương yêu có khả năng cao mắc bệnh này.
Người ta nhận thấy sự tác động khác nhau của sự kiện gây sang chấn đến những người khác nhau, với người này thì để lại hậu quả nghiêm trọng người khác thì không. Trong cùng một biến cố thì người trực tiếp là nạn nhân có nguy cơ mắc bệnh cao hơn người chỉ gián tiếp liên quan, chẳng hạn như chỉ nhìn thấy sự kiện. Ngoài ra cũng phải kể đến yếu tố tâm lý riêng của từng người, những người có khả năng chịu đựng stress tốt hơn thì ít nguy cơ hơn, tuy nhiên tất cả mọi người đều có mức độ chịu đựng nhất định, hiếm có người nào sống sót trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc xã mà lại không bị tổn thương về tâm lý.
Ám ảnh sợ xã hội
Như tên gọi, người bệnh luôn cảm thấy sợ hãi quá mức trong các tình huống mang tính xã hội như trong các buổi tiệc, nói chuyện trước đám đông, hay thậm chí chỉ là nói chuyện với người khác hoặc bị một ai đó nhìn. Có các biểu hiện như đỏ mặt, run rẩy, buồn nôn… Khi hành động thì luôn sợ hãi rằng mình sẽ làm các hành vi ngớ ngẩn để rồi phải xấu hổ. Theo thống kê khoảng 3.7% người Mỹ mắc căn bệnh này tức là xấp xỉ 5.3 triệu người, nữ có tỉ lệ mắc cao gấp đôi nam giới, thế nhưng tỉ lệ nam giới chủ động tìm kiếm sự giúp đỡ để chữa trị lại nhiều hơn. Bệnh thường khởi phát trong thời kỳ thơ ấu hoặc đầu trưởng thành hiếm khi bị bệnh sau tuổi 25. Nếu không được chữa trị bệnh sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng sống. Một số tình huống xã hội mà người bệnh thường tránh né nhất đó là:
- Nói chuyện trước đám đông
- Làm việc khi ai đó đang nhìn mình
- Nói chuyện trên điện thoại
- Gặp người lạ
- Hẹn hò
- Ăn ở nơi công cộng
- Trả lời câu hỏi trong lớp học
Rối loạn lo âu khi xa cách
Biểu hiện sự lo âu thái quá khi phải xa cách môi trường hoặc người đem lại cảm giác an toàn. Bệnh có xuất hiện ở người trưởng thành nhưng đối tượng chủ yếu mắc bệnh là trẻ em. Cần nhớ rằng lo âu khi xa cách là một giai đoạn trong quá trình phát triển tự nhiên của trẻ[11] (rất dễ quan sát ở trẻ sơ sinh chúng có thể khóc ngay khi đến nhà người lạ) do vậy chẩn đoán mắc bệnh chỉ có ý nghĩa với các biểu hiện vượt mức cần thiết.
Các rối loạn tâm thần kết hợp
Theo thống kê riêng ở Mỹ của dự án nghiên cứu National Comorbidity Survey trong năm 2005 (một dự án nghiên cứu về tỉ lệ các rối loạn tâm thần ở người Mỹ) thì 58% bệnh nhân được chẩn đoán trầm cảm có rối loạn lo âu, trong số đó 17,2% là rối loạn lo âu lan tỏa, 9,9% là rối loạn hoảng sợ. Bệnh nhân rối loạn lo âu cũng có tỉ lệ cao bị trầm cảm ngoài ra 22,4% bệnh nhân mắc ám ảnh sợ xã hội, 9,4% bệnh nhân sợ khoảng trống và 2,3% rối loạn hoảng sợ. Nhiều trường hợp các triệu chứng không đủ mạnh để chẩn đoán là rối loạn lo âu hay trầm cảm khi đó chẩn đoán đầu tiên của bệnh nhân sẽ được áp dụng.
Điều trị rối loạn lo âu
Cũng như nhiều rối loạn tâm lý khác việc điều trị bao gồm hai phương pháp chính, đó là sử dụng thuốc và các liệu pháp tâm lý trong đó có liệu pháp hành vi nhận thức, tham vấn tâm lý, thư giãn (người bệnh thực hành những bài tập thả lỏng cơ kết hợp với tập thở khí công...)
Liệu pháp hành vi nhận thức
Trị liệu bằng các liệu pháp hành vi nhận thức hiện còn chưa được phổ biến ở Việt Nam. Việc điều trị bao gồm nhiều nội dung khác nhau như là giáo dục về tâm lý, hướng dẫn cách xử lý khi có những biểu hiện của lo âu, hoảng sợ như là tập thư giãn, tập hít thở sâu, hoặc có những liệu pháp giúp bệnh nhân dần dần thích nghi được với các hoàn cảnh gây ra tình trạng lo âu và các triệu chứng sẽ dần biến mất. Để điều trị hiệu quả thường kết hợp cả hai phương pháp dùng thuốc và hành vi nhận thức.
Dùng thuốc
Loại thuốc đang được dùng phổ biến hiện nay là nhóm thuốc ức chế hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) mà một số hoạt chất phổ biến như là fluoxetine, sertraline, paroxetine… và loại thuốc chống trầm cảm 3 vòng amitriptylin cùng nhóm benzodiazepine. Tuy nhiên việc lựa chọn loại thuốc nào còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như là bệnh nhân có bệnh lý khác kết hợp hay không, điều kiện tài chính. Cũng cần phải hết sức lưu ý tác dụng phụ của thuốc khi sử dụng, SSRI là loại thuốc ít có nguy cơ về tim mạch, kháng cholinergic và ngộ độc liên quan đến quá liều nhưng nó có tác dụng phụ trên chức năng tình dục. Khi dùng loại thuốc nhóm benzodiazepin thì có những nguy cơ phụ thuộc thuốc khi sử dụng lâu dài, chỉ nên sử dụng ở các bệnh nhân buộc phải được kiểm soát các triệu chứng một cách nhanh chóng như là bệnh nhân có nguy cơ nghỉ việc, nghỉ học. Loại thuốc chống trầm cảm 3 vòng thường có các nguy cơ tác dụng phụ lên hệ tim mạch, vì vậy cần đặc biệt lưu ý với những bệnh nhân cao tuổi (thường có hệ tim mạch yếu) và những người có bệnh lý cơ thể kèm theo.
Giúp đỡ người lo âu
Có rất nhiều cách khác nhau để giúp người có stress hoặc lo âu
Nói chuyện
Chúng ta nên nói chuyện với ai? Bạn bè, người thân trong gia đình - người nào mà ta đánh giá cao quan điểm của họ và họ là những người biết lắng nghe. Họ có thể có những khúc mắc riêng của họ, hoặc biết về một ai đó mà đang có vấn đề rắc rối, và như vậy có thể cùng chia sẻ tâm trạng với chúng ta và cho chúng ta cách nhìn nhận mới mẻ. Chúng ta có thể học cách mà họ đã trải nghiệm và cách họ giải quyết vấn đề như thế nào. Cũng có nhiều chuyên gia để nói chuyện - Bác sĩ gia đình, y tá, nhà tư vấn, cán sự xã hội hoặc nhà tâm lý học. Họ cũng có thể giúp ta liên lạc với những tổ chức cộng đồng có thể giúp ích cho ta.
Thuốc
Thuốc chữa khỏi bệnh cho một số người. Tuy nhiên, vì thuốc thì dễ kê đơn, cho nên nhiều người cú xu hướng lạm dụng thuốc. Hai loại thuốc chính là bình thản và chống trầm cảm. Ngày nay, các bác sĩ đã biết rõ nguy cơ phụ thuộc thuốc và chỉ cho dùng thuốc bình thản trong một thời gian ngắn. Điều này có thể giúp cho người bệnh vượt qua cơn khủng hoảng, nhưng những thuốc này không được dùng kéo dài trong suốt quá trình điều trị lo âu. Thuốc chống trầm cảm, tuy nhiên, có thể rất có ích cho một số trường hợp lo âu và cần phải được dùng trong thời gian dài hơn. Những thuốc chống trầm cảm thì không gây nghiện.
Học cách thư giãn
Thật là tuyệt vời khi ta biết được những công nghệ thư giãn, một số loại này chỉ mất một chút thời gian. Những kỹ thuật luyện tập này giúp chúng ta trút bỏ căng thẳng và mang những căng thẳng của chúng ta trở lại chịu kiểm soát của ta. Các nhà chuyên môn sẽ giúp chúng ta làm việc này, nhưng cũng có nhiều nơi khác mà chúng ta có thể tự tìm mua được băng video và sách cho mình. Biết rõ phương pháp thư giãn làm chúng ta thêm vững tin vì biết rằng ta đang có một phương tiện "sơ cứu" bên trong.
Những phương pháp thư giãn bắt buộc phải tập đều đặn và nhất thiết phải tập mỗi khi có một mối đe doạ khủng hoảng tinh thần.
Tự giúp đỡ
Cùng với việc thư giãn theo băng video và sách, có nhiều cách khác để điều khiển và làm chủ stress của chúng ta… Thuốc và những công nghệ tập thiền, mặc tưởng, yoga và bài tập nhẹ nhàng đều đặn, chế độ kiêng khem, và nên tập trung vào những mối quan tâm mang tính sáng tạo thì tốt hơn là những mối quan tâm mang tính cạnh tranh, sử dụng thời gian hiệu quả hơn, nghe nhạc thư giãn, viết nhật ký thường xuyên để gạt bỏ những suy nghĩ tiêu cực đồng thời củng cố những cảm giác tích cực, và theo học những lớp học mang tính quyết đoán nếu thấy thích hợp. Bất cứ dạng nào của sự tự quản lý đều làm tăng khả năng giải quyết vấn đề của chúng ta hiệu quả hơn cũng như làm tăng thêm lòng tự tin của chúng ta. Nó trả lại cho chúng ta sức mạnh để điều chỉnh mà đôi khi chúng ta cảm thấy rằng mình đã đánh mất rồi.
Nguồn tham khảo: wikimedia,maihuong.gov