Viêm da dị ứng là biểu hiện tổn thương da của một dạng dị ứng. Bệnh có đặc trưng bởi bệnh sử gia đình bị hen, viêm da ở trên 70% trường hợp. Tỷ lệ mắc bệnh viêm da dị ứng đang tăng lên trên khắp thế giới, chẳng hạn tỷ lệ mắc bệnh ở học sinh Na Uy lên đến 23%.
Nguyên nhân viêm da dị ứng
Có nhiều nguyên nhân gây viêm da dị ứng như: Di truyền, khi cả cha và mẹ đều bị viêm da dị ứng thì trên 80% các con đều có biểu hiện bệnh; nếu chỉ có cha hoặc mẹ bị bệnh thì tỷ lệ mắc bệnh của các con là hơn 50%. Một số gen, trong đó có gen mã hóa IgE, là thụ thể IgE ái lực cao, men trytase dưỡng bào và interleukin (IL) 4 được xem là có liên quan đến bệnh viêm da dị ứng. Bệnh nhân có thể có biểu hiện bất thường về điều hòa miễn dịch, gồm có tăng tổng hợp IgE, tăng IgE đặc hiệu với các yếu tố như: thức ăn, dị ứng nguyên không khí, vi khuẩn...; tăng biểu hiện thụ thể IgE ái lực thấp trên bạch cầu đơn nhân to và tế bào B; suy giảm phản ứng quá mẫn cảm kiểu chậm; tăng đáp ứng cytokin loại II và giảm đáp ứng cytokin loại I.
Viêm da dị ứng còn hay gặp do các bệnh: Viêm da dị ứng, viêm da tiếp xúc dị ứng, viêm da tiếp xúc kích thích, bệnh tổ đỉa, chàm hình đồng xu, lichen đơn mạn tính, chàm không tiết nhờn, viêm da tiết bã nhờn.
Tổn thương da do viêm da tiếp xúc dị ứng
Biểu hiện viêm da dị ứng
Các tổn thương gồm có nốt sần, vết giống ban đỏ và mụn nước, mụn nước có thể kết tụ lại tạo thành mảng; nhiều tổn thương do nhiễm khuẩn và trầy da, thể hiện thành rỉ nước và đóng vảy. Trên 50% bệnh nhân viêm da dị ứng có biểu hiện trong vòng một năm đầu sau khi sinh và 80% có biểu hiện bệnh cho đến 5 tuổi; trong đó khoảng 80% số bệnh nhân về sau có biểu hiện mắc thêm các bệnh viêm mũi dị ứng hoặc hen. Ở trẻ sơ sinh có thể bệnh đặc trưng là vết đốm viêm rỉ nước và màng đóng vảy xuất hiện trên mặt, cổ và bẹn. Trong khi ở trẻ em và thiếu niên, thể bệnh lại hay gặp là viêm da nếp gấp, nhất là ở các hố trước xương trụ và hố khoeo. Bệnh viêm da dị ứng có thể tự nhiên ở người lớn, nhưng ở trẻ em bị viêm da trên 50% có thể kéo dài đến tuổi trưởng thành. Người lớn mắc viêm da dị ứng thường có tổn thương khu trú, biểu hiện dưới dạng chàm bàn tay hoặc lichen đơn mạn tính.
Ngứa là một triệu chứng nổi bật của viêm da dị ứng và do gãi gây ra nhiều tổn thương thứ phát khác trên vùng da bị bệnh. Các dấu hiệu khác của viêm da dị ứng là: xanh tím quanh miệng, xuất hiện thêm một nếp gấp nữa dưới mí mắt dưới (đường Dennie), tăng số chỉ tay, tăng nguy cơ bị nhiễm khuẩn da, nhất là khi bị nhiễm Staphylococcus aureus. Bệnh nhân bị viêm da dị ứng thường có da khô và ngứa, một số trường hợp tăng IgE huyết thanh.
Bệnh lý miễn dịch cho thấy tế bài T trợ giúp trí nhớ hoạt hóa, biểu hiện của kháng nguyên tế bào lympho da, là phối tử của phân tử bám dính tế bào nội mô chịu cảm ứng E-selectin. Trong viêm da dị ứng, tổn thương da cho thấy có tế bào Langerhans CD 1a+ dương tính mang IgE. Người ta cho rằng những tế bào này có liên quan với bệnh sinh viêm da dị ứng, qua khả năng điều tiết đáp ứng quá mẫn cảm với các dị ứng nguyên của môi trường sống.
Để chẩn đoán bệnh thường dựa vào các tiêu chí như sau: ngứa và gãi; bệnh tiến triển nặng rồi thuyên giảm; tổn thương có đặc trưng của viêm da dạng chàm; bệnh sử có dị ứng cá nhân hoặc gia đình như hen, viêm mũi dị ứng, dị ứng thức ăn hoặc chàm; diễn biến bệnh kéo dài hơn 6 tuần.
Phương pháp chữa trị viêm da dị ứng
Nguyên tắc điều trị bệnh viêm da dị ứng là tránh các kích thích da, sử dụng hợp lý, đúng chỉ định các chất glucocorticoid tại chỗ có tác dụng thấp hoặc tác dụng vừa, và điều trị nhanh chóng tổn thương da nhiễm khuẩn thứ phát. Cần hướng dẫn bệnh nhân tắm bằng nước ấm, không phải nước nóng, tránh dùng hay hạn chế dùng xà phòng. Ngay sau khi tắm, lúc da hãy còn ướt, nên bôi thuốc glucocorticoid trên da dạng kem hoặc dạng thuốc mỡ có tác dụng nhẹ hoặc tác dụng vừa. Chú ý không nên dùng các glucocorticoid tại chỗ có flo hóa ở vùng da mặt và các chỗ da trầy.
viêm da cơ địa dị ứng
Trường hợp tổn thương da có mày và rỉ nước, nên điều trị bằng kháng sinh toàn thân có tác dụng chống S.aureus, vì nhiễm khuẩn thường làm cho chàm nặng thêm. Nên dùng kháng sinh pencillin loại kháng pencillinase hoặc cephalosporin vì tỷ lệ vi khuẩn kháng macrolid khá cao. Nếu dùng dicloxacillin hoặc cephalexin theo liều 250mg x 4lần/ngày, trong 7-10 ngày, thường đủ để làm giảm sự tạo khóm nặng. Có thể dùng thuốc kháng khuẩn có chứa triclosan và mupirocin rửa mũi cách quãng để điều trị dự phòng.
Điều trị triệu chứng ngứa là rất quan trọng vì viêm da dị ứng thường có ngứa nổi ban. Những loại thuốc kháng histamin có tác dụng điều trị ngứa, nhưng tác dụng làm dịu lại hạn chế. Vì vậy chỉ nên sử dụng các chất kháng histamin mà có tác dụng làm dịu da.
Trong điều trị cần hạn chế dùng glucocorticoid toàn thân, trừ trường hợp bệnh nặng không đáp ứng với liệu pháp dùng tại chỗ. Lưu ý rằng với bệnh nhân viêm da dị ứng mạn tính, sử dụng glucocorticoid toàn thân thường chỉ làm sạch da trong thời gian ngắn và khi ngưng thuốc, viêm da sẽ tái phát, có khi nặng hơn, vì vậy việc dùng thuốc này cần hạn chế.