Chức năng chính của gan là lọc máu, giúp cho máu lưu thông khắp cơ thể, giúp chuyển hoá chất dinh dưỡng và hấp thụ thuốc từ cơ quan tiêu hoá bằng các hợp chất sinh học sẵn có. Gan có nhiều chức năng quan trọng, như loại bỏ độc tố và bài tiết các chất hoá học độc hại trong máu. Vì vậy nên tất cả lượng máu trong cơ thể đều phải lọc qua gan, tuy vậy gan không tới được các tế bào ung thư tồn tại trong máu.
Hầu hết ung thư gan là do tự phát hoặc do di căn, tức là bắt đầu từ một khối u ác tính ở cơ quan nào đó trong cơ thể thường là ở ruột, phổi, hay vú nhưng chủ yếu bắt nguồn chính ở trong gan. Căn bệnh ung thư này chiếm khoảng 2% ở Mỹ nhưng ở các nước kém phát triển và đang phát triển, con số này chiếm 50% so với những căn bệnh ung thư khác. Nguyên nhân cơ bản là do hậu quả của bệnh viêm gan, bệnh do virut truyền nhiễm gây ra.
Gan được hình thành bởi một số loại tế bào khác nhau, vì thế trong gan có thể xuất hiện những khối u:
- U lành (không có tế bào ung thư).
- U ác (có tế bào gây ung thư).
- Nó có thể là hệ quả của 1 loại ung thư khác đang trong quá trình di căn (lan rộng khắp cơ thể). Những khối u lành do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra và được điều trị theo nhiều cách khác nhau. Sự phục hồi phụ thuộc vào khối u của bạn thuộc loại nào.
Những khối u lành tính gồm có:
- U mạch máu
- U tuyến lá gan
- Focal nodular hyperplasia
Các khối u lành được điều trị khác với ung thư gan và chỉ phẫu thuật khi nó gây đau đớn hay chảy máu.
Ung thư gan bao gồm:
- Ung thư biểu bì gan
- U biểu bì đường mật ( Đây là những căn bệnh ung thư xuất phát từ ống mật )
I. NGUYÊN NHÂN GÂY UNG THƯ GAN:
Chủ yếu ung thư gan (ung thư biểu bì gan) thường hình thành trong chính những lá gan do:
- Khuyết tật bẩm sinh.
- Do uống rượu, hay bị ảnh hưởng lâu dài bởi nhiều loại bệnh chẳng hạn như viêm gan B hay viêm gan C, hemochromatosis (trong gan có quá nhiều sắt).
- Bệnh xơ gan (uống rượu làm cho gan bị tổn thương, viêm gan B hay C, hay hemochromatosis đều chắc chắn là nguyên nhân làm hỏng và gây bệnh cho gan).
- Những người mắc bệnh do di truyền gọi là hemochromatosis, hay bệnh thừa sắt, thì thậm chí nguy cơ ung thư còn hơn rất nhiều.
- Do phơi nhiễm thuốc diệt cỏ và các chất hoá học như nhựa viny clorua và thạch tín.
- Hút thuốc lại hay uống rượu thì càng làm tăng nguy cơ.
- Chất độc tạo thành trong bào tử nấm được sinh ra từ một loại mốc của cây cũng gây ung thư. Những chất độc trong bào tử nấm sẽ làm hỏng lúa mỳ, lạc, gạo, ngô hay đậu tương.
Những nhân tố khác bao gồm:
- Giới tính: Đàn ông thường mắc bệnh ung thư gan nhiều hơn phụ nữ.
- Những vận động viên nữ phải sử dụng hormon để phát triển cơ trong thời gian dài có thể tăng nguy cơ ung thư gan.
- Các loại thuốc tránh thai. Chúng có thể tăng nguy cơ ung thư gan. Hầu hết những loại thuốc tránh thai có liên quan tới bệnh ung thư này đều không được sử dụng trong thời gian dài.
II. TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH UNG THƯ GAN:
1- Đau vùng gan: đau vùng hạ sườn phải, thường gặp vào thời kỳ giữa và cuối, đau tức hoặc như dao đâm. Thường trên nửa số bệnh nhân có đau vùng gan, đau xuyên lên vai phải và lưng.
2. Bung trên đầy tức, xuất hiện sớm, thường kèm theo những triệu chứng rối loạn tiêu hóa nhưng ít được chú ý, đến lúc muộn thì đã có nước bụng và cổ trướng.
3. Chán ăn là triệu chứng sớm nhất của bệnh nhưng ít được chú ý và dần dần xuất hiện buồn nôn, nôn, tiêu chảy nặng lên đã là giai đoạn cuối.
4. Những triệu chứng khác như mệt mỏi, sút cân, sốt và xuất huyết là nhúng triệu chứng của thời kỳ cuối mà tiên lượng đã rất xấu.
5. Gan to (khối u vùng bụng trên) trên 90% số bệnh nhân đến khám là gan to, cứng, mặt gồ ghề hoặc ấn đau.
6. Lách to thường kèm theo và là kết quả của xơ gan.
7. Cổ trướng là triệu chứng của thời kỳ cuối, nước bụng thường màu vàng cỏ úa hoặc màu đỏ (có máu), thuốc lợi tiểu thường không có hiệu quả.
8. Hoàng đản (vàng da) do tắc mật và do tế bào hủy hoại nặng dần lên, mạch sao, thường xuất hiện vào thời kỳ cuối biểu hiện của xơ gan.
Chẩn Đoán Và Phân Biệt Chẩn Đoán
Các triệu chứng lâm sàng trên đây được quan sát và thăm khám đầy đủ giúp chẩn đoán bệnh được chính xác.
- Các phương tiện chẩn đoán hiện đại:
1- Siêu âm ký có giá trị chẩn đoán cao và không hại cho người bệnh.
2. Sinh thiết tế bào gan, soi ổ bụng, mổ bụng thăm dò là các phương pháp có thể thực hiện để xác định chẩn đoán.
3. Xét nghiệm máu: nồng độ phosphataza kiềm tăng.
4. Bản đồ rà gan bằng đồng vị phóng xạ.
5. CT (computed tomography).
Cần phân biệt chẩn đoán với:
a. Áp xe gan: đau nhiều, sốt cao, bạch cầu đa nhân trung tính tăng cao...
b. Xơ gan: thường gan không to nhiều hoặc nhỏ hơn...
c. Ung thư gan thứ phát do di căn: có các triệu chứng của các loại ung thư, cần hỏi kỹ tiền sử bệnh và khám kỹ để phân biệt.
III. CÁC BIẾN CHỨNG CỦA BỆNH UNG THƯ GAN:
Những người bị ung thư gan đôi lúc có thể bị suy gan, xảy ra khi gan không thể kéo dài đầy đủ chức năng. Suy gan thường xảy ra khi có tổn thương tế bào gan kéo dài.
Thận cũng có thể bị suy, mất khả năng lọc máu và thải chất thải làm cho nồng độ của những chất nguy hiểm này tích luỹ trong cơ thể. Có thể có rất nhiều biến chứng, tuy nhiên lúc này ung thư gan đã di căn tới các cơ quan khác.
Điều trị ung thư gan nguyên phát phụ thuộc vào giai đoạn của bệnh cũng như tuổi của bạn, sức khỏe nói chung, cảm giác và sở thích từng người. Thảo luận tất cả các lựa chọn của bạn cẩn thận với các bác sĩ điều trị. Chọn cách điều trị là một quyết định lớn, và điều quan trọng là phải có thời gian để cân nhắc lựa chọn của bạn.
Bạn có thể cũng muốn có quan điểm thứ 2, đặc biệt với các bác sĩ đã có kinh nghiệm trong điều trị ung thư gan. Ý kiến thứ 2 có thể đưa cho bạn thêm thông tin và giúp bạn cảm thấy chắc chắn hơn về những lựa chọn của bạn.
Hơn nữa, tiếp cận các Tài liệu sách báo Đánh giá về Công nghệ Dịch vụ Y tế trong Thư viện Quốc gia, nơi có đầy đủ tài liệu có thể giúp bạn quyết định cách điều trị. Bạn có thể tra cứu dữ liệu này ở địa chỉ http//text.nih.gov.
Mục đích của bất cứ cách điều trị nào thường là loại bỏ hoàn toàn khối ung thư. Khi điều này không thể thực hiện, trọng tâm của điều trị có thể là ngăn ngừa khối u phát triển và di căn. Ở một số trường hợp chỉ điều trị làm giảm nhẹ gánh nặng là thích hợp. Điều trị làm giảm nhẹ gánh nặng bệnh không nhằm cắt bỏ hoặc làm giảm bệnh tật nhưng giúp làm giảm các triệu chứng và tạo cho bạn cảm giác dễ chịu nhất.
IV. ĐIỀU TRỊ VÀ PHÒNG BỆNH UNG THƯ GAN
Điều trị ung thư gan rất khó khăn . Triệu chứng ung thư gan thì khó nhận biết chỉ đến khi khối u phát triển nhiều , vì vậy việc phát hiện thường là trễ. Những yếu tố nguy cơ khác như xơ gan , làm cho việc điều trị phẫu thuật khó khăn.
Phẫu thuật có thể cắt bỏ khối u nhỏ , nếu cả khối u được cắt bỏ , khả năng sống còn của bệnh nhân 25%. Tuy nhiên thưiờng rất hiếm thành công vì thường phần lớn gan đã bị xơ.
Ghép gan thì có thể , tuy nhiên nếu ung thư đã di căn thì không thể áp dụng được.
Hóa trị và xạ trị thì hiệu quả rất hạn chế
Một kỹ thuật mới (SIRT) phướng pháp dùng tia xạ chọn lọc với tần số cao đánh trực tiếp vào khối u mà không làm tổn thương mô xung quanh . Thử nghiệm lâm sàng cho thấy SIRT có thể cải thiện triệu chứng và kéo dài sự sống cho bệnh nhân.
Kỹ thuật đông lạnh bằng hóa chất : dùng catheter bơm hóa chất và thuốc doxorubicin vào khối u cũng hứa hẹn nhiều thành công tốt đẹp.
Các kết quả thí nghiệm trong một nghiên cứu đa quốc gia với 602 bệnh nhân bị bệnh ung thư gan di căn thật ấn tượng và sẽ thay đổi cách điều trị bệnh, các chuyên gia ung thư, tác giả của nghiên cứu cho biết.
Mặc dù, trung bình thời gian sống thêm của bệnh nhân dùng sorafenib là 10,7 tháng so với gần tám tháng của những người dùng giả dược, nhưng tới nay, một số bệnh nhân dùng sorafenib vẫn còn sống.
Lợi thế này chưa bao giờ xảy ra ở ung thư gan và đây là một bước đột phá lớn trong phương pháp điều trị bệnh – Tiến sĩ Josep Llovet, trưởng nhóm nghiên cứu nói.
“Mặc dù thời gian sống thêm không nhiều nhưng với ung thư gan, đây là một thành công khá ấn tượng” – Tiến sĩ Nancy Davidson thuộc Trường Y tế Công cộng Bloomberg nói. “Đây là phương pháp điều trị hữu hiệu đầu tiên với ung thư gan”.
Thuốc sorafenib nhắm vào các tế bào ác tính và giảm lượng máu tới nuôi dưỡng khối u. Khối u của nhiều bệnh nhân không co lại hoặc biến mất nhưng chúng cũng không phát triển.
“Thuốc sẽ không chữa khỏi bệnh nhưng nó trì hoãn quá trình tiến triển của bệnh một cách đáng kể” – ông Llovet thuộc Trường Y tế Mount Sinai ở New York và Bệnh viện Barcelona, Tây Ban Nha, cho biết.
Thuốc sorafenib, có tên thương mại là Nexavar, được Mỹ và hàng chục nước khác cấp phép để điều trị ung thư thận di căn. Nó được sản xuất bởi Bayer Pharmaceuticals Corp. và Onyx Pharmaceuticals Inc.
Các nhà nghiên cứu hi vọng Mỹ và các nước khác sẽ đồng ý để loại thuốc này được phép điều trị bệnh ung thư gan di căn.
Hàng năm, khoảng 500.000 người trên toàn thế giới bị mắc ung thư gan. Các yếu tố dẫn tới bệnh này gồm một số dạng viêm gan. Bệnh phổ biến ở Trung Quốc và các nước không sử dụng phổ biến vaccine viêm gan B.
Ung thư gan không phản ứng tốt với hoá trị liệu truyền thống và thường được chẩn đoán muộn. Rất nhiều bệnh nhân qua đời trong vòng một năm sau chẩn đoán.
Phòng bệnh ung thư gan:
Phòng bệnh là phương pháp tốt nhất chống ung thư gan. Phải nỗ lực làm giảm xơ gan phát hiện sớm và điều trị viêm gan siêu vi mãn tính. Các thuốc điều trị viêm gan virus mãn tính , thuốc chống siêu vi cũng có thể làm giảm tỉ lệ ung thư gan.
Vaccin chống siêu vi A , B rất cần thiết , đặc biệt với người viêm gan C . Không nên uống rượu. Phải khám sức khỏe định kỳ những người có nguy cơ nhằm phát hiện ung thư gan sớm.